Trần Mỹ Duyệt
Mẹ triển dương như cây hương nam trên núi Libanô.
Như cây trắc bá trên đồi Sion.
Mẹ đứng cao như cây thiên tuế xứ Cades.
Như vườn hồng Jêricô.
Mẹ triển dương như Ôliva ngoài đồng,
Như cây tiêu bên suối nước công viên.
Mẹ tỏa hương thơm ngát như trầm hương.
Cao quý như mộc dược cung kính.
Ôi! Maria! [1]
Giáo Hội Công Giáo theo nghi lễ Latin đang hân hoan cử hành thánh lễ trọng thể kính đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ. Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội là một trong 4 đặc ân mà Thiên Chúa chỉ ban cho một mình Đức Mẹ, gồm: Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Trọn Đời Đồng Trinh, Mẹ Thiên Chúa, và Hồn Xác Về Trời. Với lý luận tự nhiên, con người không dễ đón nhận những đặc ơn này, và vì thế, Giáo Hội đã tuyên tín, và buộc rằng đây là những điều phải tin mặc dù trí khôn cũng như sự hiểu biết thông thường không thể giải thích được.
Nhiều người vẫn thường hiểu lầm giữa việc Đầu Thai Vô Nhiễm Tội với việc Mẹ sinh Chúa Giêsu mà vẫn còn đồng trinh. Ngoài ra, thêm một hiểu lầm nữa cho rằng, với đặc ân này, Mẹ Maria thụ thai mà không cần sự phối hợp sinh lý của cha mẹ.
Con người tự nhiên khi thụ thai là lúc linh hồn do Thiên Chúa tạo dựng được phú vào thân xác. Qua đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria được miễn trừ khỏi mọi tỳ vết của tội Nguyên Tổ ngay từ giây phút đầu tiên của hành động kết hợp này. Và nhờ ơn thánh hóa đã được ban cho trước khi tội Nguyên Tội có thể ảnh hưởng đến linh hồn của Mẹ. Vì vậy, ngay từ giây phút đầu thai, Mẹ đã được miễn trừ khỏi lây vướng Tội Nguyên Tổ. Thánh Kinh không trực tiếp nói về tín điều thụ thai Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ. Nhưng Giáo Hội đã suy niệm và tìm thấy trong Kinh Thánh những dấu chỉ liên quan đến sự việc này. Và việc Mẹ Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội chính là để bảo đảm việc Mẹ mang thai và sinh hạ Chúa Giêsu sau này.
Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội là một tín điều chỉ rằng Đức Trinh Nữ Maria được Chúa cho miễn trừ khỏi Tội Nguyên Tổ ngay từ giây phút đầu thai. Tín Điều này đã được tuyên tín năm 1854, bởi Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX trong Sắc Lệnh Ineffabilis Deus.
Vậy Tội Nguyên Tổ là gì? Và tại sao Đức Maria lại được ơn đầu thai Vô Nhiễm Nguyên Tội?
TỘI NGUYÊN TỔ LÀ GÌ?
Tội Nguyên Tổ là từ ngữ được sử dụng để chỉ tội đầu tiên do Adong và Evà đã phạm vì bất phục tùng Thiên Chúa. Nó được gọi là “nguyên tổ” bởi nó là tội đầu tiên do nguyên tổ loài người phạm phải.
Thừa hưởng di sản từ nguyên tổ, con người khi sinh ra đã không có khả năng chống lại các cơn cám dỗ và ham muốn dục vọng. Tội Nguyên Tổ như một căn bệnh thiêng liêng vì nó kháng cự lại lề luật của Thiên Chúa. Hậu quả trước hết của nó là làm mất ơn thánh hóa, tách lìa sự sống thần linh khỏi Thiên Chúa. Thứ đến, nó dẫn đến việc thiếu hiểu biết, thiếu ý chí, và dễ sa ngã trước những đam mê thấp hèn. “Tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác thì yếu đuối” (Mt 26,41). Hậu quả sau cùng là sự chết, là mất sự sống đời đời. [2]
Tội Nguyên Tổ là một giáo lý của Kitô giáo, nó cho biết rằng con người từ khi sinh ra đã thừa hưởng một bản chất hư hoại bằng sự nối kết với hành động của nguyên tội truyền từ đời này sang đời khác. Niềm tin này bắt nguồn từ Thánh Kinh qua Sáng Thế Ký 3, trong Thánh Vịnh 51:5, và trong Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Roma 5:12-21.
Theo Thánh Augustine, mọi người đều được sinh ra trong tội. Điều này có nghĩa là con người ta sinh ra với bản năng để làm điều xấu và bất tuân phục Thiên Chúa. Đây là một giáo lý quan trọng của Kitô giáo. Ý tưởng về Tội Nguyên Tổ được diễn tả bởi Thánh Augustine và được hình thành như một phần của giáo lý Công Giáo bởi Công Đồng Trent vào thế kỷ thứ 16. Nó không chỉ là một căn bệnh di truyền thiêng liêng nơi bản chất con người; nó cũng còn là một lời ‘nguyền rủa’ đi liền với hành động này.
Là một sự bất toàn tinh thần và điều kiện tâm lý của con người. Ngay ở một trẻ sơ sinh, tuy không làm gì nhưng cũng đã bị vướng lây. Nguyên Tội là kết quả của sự bất tuân phục của Ađam và Evà khi họ ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng. Như vậy, Đầu Thai Vô Nhiễm Tội đối với Đức Maria có nghĩa là Mẹ tuy được thụ thai và đem vào thế gian này một cách tự nhiên, nhưng không mang tỳ vết và hậu quả của Nguyên Tội. Từ ngữ “tinh khiết” (immaculate) có nghĩa là: không tỳ vết. [3]
MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Giáo Lý Công Giáo dạy rằng: “Để trở thành mẹ của Đấng Cứu Thế, Maria ‘được làm giầu bởi Thiên Chúa bằng những ơn huệ thích hợp cho địa vị này.” Trong giây phút truyền tin, Tổng Thần Gabriel đã chào mừng Mẹ “đầy ơn phúc”. Thật vậy, để Đức Maria được tự do chấp thuận bằng đức tin của mình đối với lời truyền tin về ơn gọi của Mẹ, cần thiết rằng, Mẹ phải được sinh ra hoàn hảo bằng ân sủng của Thiên Chúa” (Số 490). Và “Qua nhiều thế kỷ, Giáo Hội đã nhận ra rằng Đức Maria, “đầy ơn phúc” nhờ ơn Thiên Chúa, đã được cứu độ từ giây phút thụ thai của Mẹ (Số 491). Tín lý về Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria đã được Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX tuyên tín năm 1854:
Trinh Nữ Maria rất thánh, ngay từ giây phút đầu hoài thai, bởi một ân sủng đặc biệt và một đặc ân của Thiên Chúa Toàn Năng, và bởi nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế của nhân loại, được gìn giữ tinh tuyền khỏi mọi vết nhơ của tội Nguyên Tổ.
Mẹ Maria không bao giờ phạm tội. Bởi vì ơn cứu độ đã được áp dụng cho Mẹ ngay từ lúc hoài thai. Mẹ không chỉ được che chở khỏi vương mắc tội Nguyên Tổ, nhưng còn cả tội riêng của mình. “Các Giáo Phụ theo truyền thống Đông Phương đã gọi Mẹ Thiên Chúa “Đầy Thánh Đức” (Panagia) và tán dương Mẹ như “không vương bất cứ tỳ vết nào của tội, được bao bọc bởi Chúa Thánh Thần, và được tạo dựng như một tạo vật mới”. Bởi ân sủng của Thiên Chúa, Đức Maria giữ mình khỏi mọi tội riêng trong suốt đời sống của người. “Xin hãy thực hiện nơi tôi như lời ngài…” (Số 493)
“Vinh quang của sự thánh thiện hoàn toàn đặc biệt” bởi đó Đức Maria “đầy tràn từ giây phút đầu tiên của việc Mẹ được hoài thai” đến một cách đầy đủ từ Chúa Kitô: Mẹ được “cứu chuộc, và trong sự bao bọc phi thường, bởi nguyên nhân đáng hưởng của Con của mẹ”. Cũng trong Sách Giáo Lý dạy rằng: “Từ những con cháu của Evà, Thiên Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria làm mẹ của Con của Ngài. “Đầy ơn phúc”, Đức Maria là “hoa trái tuyệt vời nhất của ơn cứu chuộc” (SC 103): từ giây phút đầu tiên hoài thai, Mẹ đã được hoàn toàn miễn trừ khỏi vết nhơ tội Nguyên Tổ và ở giữa trong sạch khỏi mọi tội riêng mình trong suốt cuộc đời Mẹ” (Số 508).
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết về Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ dưới nhãn quan Thánh Mẫu Học: “Khi suy niệm mầu nhiệm này trong một nhãn quan Thánh Mẫu, chúng ta có thể nói rằng, “Đức Maria, theo Con của mình, là một hình ảnh tinh tuyền nhất của sự tự do và giải thoát của nhân loại và của vũ trụ. Vì mẹ như Người Mẹ và Mô Phạm mà Giáo Hội phải nhìn lên để hiểu cách hoàn toàn ý nghĩa của nó trong sứ vụ riêng của Mẹ”. [4]
Và: “Chúng ta hãy ngắm nhìn lên Mẹ Maria, biểu tượng của Giáo Hội lữ hành trong một lịch sử hoang vu, nhưng trên con đường của Mẹ dẫn tới một đích đến vinh quang của Giêrusalem trên trời, nơi đó, Giáo Hội sẽ chiếu sáng như Tân Nương của Con Chiên, Chúa Kitô”. [5]
Vì không bị mắc Tội Tổ Tông, nên những đam mê, dục vọng của Đức Mẹ luôn được kiểm soát bởi sự hiểu biết và ý chí của Người. Cái chết và việc đánh mất sự sống đời đời là những hậu quả sau cùng của tội nguyên tổ. Thiên Chúa đã ban tặng cho con người món quà tuyệt vời là sự sống đời đời mà vì sự hủ bại của tội đã đánh mất điều đó. Vì vậy đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội là một đặc ân mà Ngài chỉ dành riêng cho một mình Đức Mẹ, đấng làm mẹ và sinh ra Chúa Giêsu, Chúa Cứu Chuộc con người khỏi ách tội lỗi, khỏi sự thống trị của Satan.
__________
Tài liệu tham khảo:
1. Mẹ triển dương. Lm. Vinh Hạnh.
2. https://dcvphanxicoxavie.com/vn/Than-Hoc/Toi-Nguyen-To-La-Gi.html
https://www.catholic.com › tract › immaculate-concept.
4.Congregation for the Doctrine of the Faith, Libertatis conscientia, 22 March, 1986, n. 97; cf. Redemptoris Mater, n. 37.
5.General Audience, March 14, 2001.
Advent xuất phát từ tiếng Latin là adventus có nghĩa là đang đến, đang tới gần. Theo lịch phụng vụ, đây là thời gian mong chờ và chuẩn bị đón mừng Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô trong đêm Giáng Sinh, và ở một nghĩa khác, nhắc nhở chúng ta hướng tới ngày trở lại lần thứ hai của Ngài. Mùa Vọng kéo dài qua 4 tuần lễ với 4 Chúa Nhật Mùa Vọng.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?